Hotline 0342205568 | Hotline
about Giới Thiệu about Liên Hệ
Giới thiệu về cây Chùm ngây - loài cây quý
Home > TIN TỨC > Tin sức khỏe>
Giới thiệu về cây Chùm ngây - loài cây quý

CÂY CHÙM NGÂY


Theo Y học cổ truyền Việt Nam thì cành lá cây chùm ngây luộc ăn hay sắc uống kích thích tiêu hóa, kiện vị, trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ Chùm ngây sắc uống, có tác dụng kiện vị; giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc trị thấp khớp.

CÂY CHÙM NGÂY

1. Tên gọi khác: Cây kỳ diệu (tên từ nước ngoài), Cây cải ngựa (từ nước ngoài) 

2. Tên tiếng Anh: Moringa tree, Drumstick tree, Horseradish tree, Indian   Horseradish tree, ben oil tree.

3. Tên khoa học: Moringa oleifera Lam.

- Tên đồng nghĩa: Moringa pterygosperma.

- Các loài tương cận:

Moringa arborea (Chùm ngây Ấn Độ)

Moringa stenopetala (Chùm ngây Châu Phi)

Phân loại khoa học

Bộ (ordo):

Cải (Brassicales)

Họ (familia):

Chùm ngây (Moringaceae)

Chi (genus):

Chùm ngây (Moringa)

Loài (species):

Chùm ngây: Moringa oleifera

 

4. Phân bố

Bản địa của cây chùm ngây là ở vùng sơn cước Hi Mã Lạp Sơn ở Tây bắc Ấn Độ nhưng ngày nay được trồng rộng rãi ở Châu Phi, Trung Mỹ, Nam Mỹ, và Đông Nam Á (Campuchia, Malaysia, Indonesia).

Loài cây Chùm ngây (Moringa oleifera) được mọc hoang và trồng tại nhiều nơi trong khu vực nhiệt đới Châu Á và là loài duy nhất của Chi Chùm ngây có mặt tại Việt Nam.

Cây Chùm ngây (Moringa oleifera), có ở Việt Nam ta từ lâu đời (mọc hoang nhiều nhất ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận) nhưng trong vài chục năm trở lại đây người ta nghiên cứu thấy nó có nhiều tác dụng đặc biệt nên tưởng là cây mới du nhập.

Ở Việt Nam cây chùm ngây được trồng nhiều ở tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận nhưng cũng có mặt ở nững tỉnh khác như Thanh Hóa và đang được mở rộng ở khắp cả nước.

 Có thể nói chùm ngây là một loài cây đa dụng; mỗi bộ phận đều có thể dùng được.

5. Mô tả

Cây chùm ngây (Moringa oleifera) thuộc loài cây tiểu mọc, sống ở môi trường khô ráo, không thích nghi môi trường úng nước.

+ Thân: Là cây thân gổ nhỏ, cao 5-6 m (có thể đến 10 m), phân cành nhiều.

+ Lá: Lá kép ba lần dạng lông chim, dài 30-60 cm, lá chét hình tròn hay hình trái xoan, dài 10-12 cm, màu xanh lục mốc, không lông, mọc đối từ 6-9 đôi, lá bẹ bao lấy chồi.

+ Hoa: Hoa màu trắng, to, có cuống, mọc thành chùy ở nách lá, trông hơi giống hao hoa Đậu, 5 cánh hoa, dảnh lên; 5 tiểu nhị thụ, xen với 5 tiểu nhị lép; noãn sào 1 buồng, đính phôi trắc mô ba, có hương thơm, hoa nấu ăn được. Sau trồng 8 tháng là cây bắt đầu cho hoa. Mùa hoa tháng 1.

+ Quả: Quả nang treo, dài 25-30 cm (có khi đến 55 cm), ngang 2-3 cm, có hình dáng giống quả đậu Cô ve, có 3 mảnh, dọc theo quả có khía rãnh.

+ Hạt: Quả cho nhiều hột tròn, có 3 cạnh, cở hạt đậu Hà Lan, cở 0,5 cm, có cánh mỏng bao quanh.

Cây chùm ngây được trồng ở những vùng đất khô, nhiệt đới hoặc bán nhiệt đới. Cây này chuộng đất ráo nước, nhiều cát, dù là đất xấu cũng dễ mọc, chịu được hạn hán.

Ở Việt Nam Cây chùm ngây trồng được ở cao độ dưới 500 m; lá ăn được như rau, trái (nạc nương) dùng làm bột cà ri; dầu từ hột ăn được, có tính làm giảm sự thụ thai. Cây gặp ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc”.

6. Thành phần hóa học

a -Theo phân tích của người Pháp:

Đầu thập niên 1950, Vialard Goudou đã phân tích lá Chùm ngây mà nhân dân Việt Nam bán ở các chợ để làm rau ăn, cho thấy lá cây chùm ngây rất giàu dinh dưỡng, nhất là chất đạm, chất sắt và sinh tố C.

Lá Chùm ngây tươi chứa 6,35 g% chất đạm, 1,7 g% chất béo, 8 g% bột đường; 1,9 g% chất xơ; 3,75 g% chất khoáng; 50 mg% phosphor; 25 mg% natri; 216 mg% kali; 122 mg% calci; 123 mg% magnesium; 0,1 mg% đồng, 16,4 mg% sắt, 6.250 UI% sinh tố A; 0,3 mg% B2; 2,3 mg% PP và 110 mg% sinh tố C.

Sách Nghiên cứu y học cổ truyền Đông Dương (Les Plantes Médicinales du Cambodge, du Laos et du Vietnam) của Alfred Petelot, Saigon 1953, cho thấy tất cả bộ phận của cây đều chứa một chất glycosid có vị cay cay giống như hột Cải cay (mù tạc).

Thân, cành và vỏ rễ Chùm ngây chứa moringin (= belzylamil), moringinin, athonin, spirochin, pterigospermin.

Chất gôm tiết từ thân cây Chùm ngây chứa polyuronid gồm arabinoz, galactoz, rhamnoz, glycuronic acid. Mùi Cải ngựa và rễ Chùm ngây là do chất benzyl - isothiocyanat.

b -Theo phân tích của người Mỹ

Theo Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), thành phần chất dinh dưỡng trong cây Chùm ngây (Moringa oleifera) như sau:

+Trong 100 gam lá tươi của cây Chùm ngây có:

 

Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam lá tươi

Năng lượng

64 kcal (270 kJ)

Carbohydrates

8.28 g

Chất xơ

2.0 g

Chất béo

1.40 g

Protein

9.40 g

Nước

78.66 g

Vitamin A equiv.

378 μg (47%)

Thiamine (vit. B1)

0.257 mg (22%)

Riboflavin (vit. B2)

0.660 mg (55%)

Niacin (vit. B3)

2.220 mg (15%)

Pantothenic acid (B5)

0.125 mg (3%)

Vitamin B6

1.200 mg (92%)

Folate (vit. B9)

40 μg (10%)

Vitamin C

51.7 mg (62%)

Calcium

185 mg (19%)

Iron

4.00 mg (31%)

Magnesium

147 mg (41%)

Manganese

0.36 mg (17%)

Phosphorus

112 mg (16%)

Potassium

337 mg (7%)

Sodium

9 mg (1%)

Zinc

0.6 mg (6%)

Ghi chú: Tỷ lệ % so với nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .

 

+So sánh chất dinh dưỡng trong lá cây chùm ngây với một số thực phẩm khác

 

Chất dinh dưỡng

Thực phẩm thông dụng

Lá cây chùm ngây

Vitamin A

Củ Carrot

1.8 mg

6.8 mg

Calcium

Sữa

120 mg

440 mg

Potassium

Chuối

88 mg

259 mg

Protein

Yogurt

3.1 g

6.7 g

Vitamin C

Cam

30 mg

220 mg

 

+Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam hạt tươi

 

Thành phần trong 100 gam hạt tươi

Năng lượng

37 kcal (150 kJ)

Carbohydrates

8.53 g

Chất xơ

3.2 g

Chất béo

0.20 g

Protein

2.10 g

Nước

88.20 g

Vitamin A equiv.

4 μg (1%)

Thiamine (vit. B1)

0.0530 mg (5%)

Riboflavin (vit. B2)

0.074 mg (6%)

Niacin (vit. B3)

0.620 mg (4%)

          Pantothenic acid (B5)

0.794 mg (16%)

Vitamin B6

0.120 mg (9%)

Folate (vit. B9)

44 μg (11%)

Vitamin C

141.0 mg (170%)

Calcium

30 mg (3%)

Iron

0.36 mg (3%)

Magnesium

45 mg (13%)

Manganese

0.259 mg (12%)

Phosphorus

50 mg (7%)

Potassium

461 mg (10%)

Sodium

42 mg (3%)

Zinc

0.45 mg (5%)

Ghi chú: Tỷ lệ % so với nhu cầu hàng ngày của người lớn theo tiêu chuẩn của US recommendations .

 

c - Theo các nguồn phân tích khác

-Lá chứa: Các hợp chất loại flanonoids và phenolic như kaempferol 3-O-alpha-rhamnoside, kaempferol, syringic acid, gallic acid, rutin, quercetin 3-O-beta-glucoside. Các flavonol glycosides được xác định đều thuộc nhóm kaempferide nối kết với các rhamnoside hay glucoside.

-Rễ chứa: Glucosinolates như 4-(alpha-L-rhamnosyloxy)benzyl glucosinolate (chừng 1%) sau khi chịu tác động của myrosinase, sẽ cho 4-(alpha-L-rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate. Glucotropaeolin (chừng 0.05%) sẽ cho benzylisothiocyanate.

-Hạt chứa: Glucosinolates ( như trong rễ) : có thể lên đến 9% sau khi hạt đã được khử chất béo.Các acid loại phenol carboxylic như 1-beta-D-glucosyl-2,6-dimethyl benzoate.Dầu béo (20-50%) : phần chính gồm các acid béo như oleic acid (60-70%), palmitic acid (3-12%), stearic acid (3-12%) và các acid béo khác như behenic acid, eicosanoic và lignoceric acid…

Vài số liệu so sánh chất dinh dưỡng ở lá chùm ngây

Vitamin C gấp 7 lần nhiều hơn trái Cam 

Vitamin A gấp 4 lần nhiều hơn Cà-rốt 

Calcium gấp 4 lần nhiều hơn sữa 

Chất sắt gấp 3 lần so với cải bó xôi 

Chất đạm (protein) gấp 2 lần nhiều hơn Ya-ua 

So sánh dinh dưỡng của lá chùm ngây với thực phẩm khác

Công dụng

- Theo Đông y

Vỏ cây, nhựa cây, rễ, lá, hạt, dầu, và hoa được sử dụng trong y học cổ truyền ở một số nước.

Theo Y học cổ truyền nước ngoài thì các bộ phận của cây như lá, rễ, hạt, vỏ cây, quả và hoa.. có những hoạt tính như kích thích hoạt động của tim và hệ tuần hoàn, hoạt tính chống u-bướu, hạ nhiệt, chống kinh phong, chống sưng viêm, trị ung loét, chống co giật, lợi tiểu, hạ huyết áp, hạ cholesterol, chống oxy-hóa, trị tiểu đường, bảo vệ gan, kháng sinh và chống nấm.. Cây đã được dùng để trị nhiều bệnh trong Y-học dân gian tại nhiều nước trong vùng Nam Á. (Phytotherapy Research Số 21-2007).

+ Ở Ấn Độ:

Cây Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..). Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ.

Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh.

Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci niacordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi.

Thân cây bị vết chặt sẽ tiết ra một gôm trắng đục, sau phơi nắng trở thành hồng hay đỏ nâu ở mặt ngoài. Gôm này có tính trương nở lớn, ở Ấn Độ người ta đã biết dùng làm trương nở cổ tử cung để phá thai (Pharmacographia Indica 1890).

Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương.

Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp.

+ Ở Pakistan: 

Cây chùm ngây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Cây Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cách sử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như:

Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ..

Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở.

Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..

Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng..

+ Ở Châu Phi và Indonesia:

Lá cây chùm ngây được các bà mẹ nuôi con ăn để tin rằng chúng làm tăng tiết sữa.

+ Ở Trung Mỹ: 

Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán.

+ Ở Saudi Arabia:

Hạt Cây Chùm Ngây được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông.

+ Ở Senegal: Người ta dùng cành, lá sắc uống trị còi xương, viêm cuống phổi, phù nề, thấp khớp.

+ Ở Philippines: Người ta dùng rễ làm thuốc đắp thế mù tạc làm tụ máu, nó gây cảm giác rất đau.

Theo Y học cổ truyền Việt Nam thì cành lá cây chùm ngây luộc ăn hay sắc uống kích thích tiêu hóa, kiện vị, trị tiêu chảy, kiết lỵ, viêm phổi. Rễ Chùm ngây sắc uống, có tác dụng kiện vị; giã đắp làm sung huyết (tụ máu) thay cải Mù tạc trị thấp khớp.

Rễ  Cây Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau.

Chú ý! Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý!

Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ  Cây Chùm Ngây  theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa.

Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột, gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan.

Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm.

- Theo Tây y

Cây Chùm Ngây (Moringa oleifera) được xem là một cây đa dụng, rất hữu ích tại những quốc gia nghèo thuộc “Thế giới thứ ba” nên đã được nghiên cứu khá nhiều về các hoạt tính dược dụng, giá trị dinh dưỡng và công nghiệp. Đa số các nghiên cứu được thực hiện tại Ấn Độ, Philippines, và Phi Châu.. 

Do là cây rau và cây thuốc còn được mệnh danh là cây Độ Sinh (Tree of Life) hay cây Thần Diệu (Miracle Tree) nên cây chùm ngây là một trong những loài cây rau làm thuốc được nghiên cứu nhiều nhất thế giới.

1-Khả năng kháng sinh diệt vi khuẩn và vi nấm:

Chất Athonin có tác dụng kháng sinh trên vi trùng dịch tả (Vibrio cholerae) và hoạt tính của nó nằm giữa chloromycetin và streptomycin (Sen Gupta và cs 1956).

Chất Spirochin có tính kháng sinh trên vi khuẩn gram+ nhất là chống Staphyllococcus và Streptococcus (Chatterjee, 1951).

Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác định tác dụng kháng sinh chống lại nhiều dòng vi khuẩn nhờ hoạt chất Pterigospermin của nó.

Chất Pterigospermin là kháng sinh quan trọng nhất của cây Chùm ngây, với kháng khuẩn phổ rộng, trên cả vi khuẩn gram+ lẫn gram-: Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilis, Escherichia coli, Aerobacter aerogenes, Salmonella typhi, Salmonella enteritidis, Shigella dysenteriae, Mycobacterium tuberculosis (Kurup và Narasimha 1954).

Chất chiết từ vỏ cây có tính kháng sinh trên Micrococcus pyogenes var. aureus, Bacillus subtilis, Diplococcus pneumoniae, Streptococcus pyogenes, Escherichia coli, Salmonella typhi, Vibrio coma, Shigella dysenteriae, Mycobacterium phlei.

Nó cũng ức chế vi nấm Microsporum gypseum, Trichophyton mantagrophytes, Candida albicans, Helminthosporium sativum (Bhatnaga và cs 1961).

Trích tinh lá bằng ether có tác dụng trụ sinh (bacteriostatic activity) đối với Staphyllococcus aureus và Salmonella typhi (Bhawasa và cs 1965).

Chất 4 (alpha-L-Rhamnosyloxy) benzyl isothiocyanate được xác định là có hoạt tính kháng sinh mạnh nhất trong các hoạt chất trích từ hạt Chùm Ngây (trong hạt Chùm Ngây còn có benzyl isothiocyanate). Hàm lượng chất này rất cao: 8 - 10%, với điều kiện trong quá trình tách chiết phải thêm ascorbic acid vào nước trích. Nó có tác dụng kháng sinh với rất nhiều vi khuẩn và vi nấm (Eilert và cs, 1981).

Nồng độ tối thiểu để ức chế Bacillus subtilis là 56 micromol/l và để ức chế Mycobacterium phlei là 40 micromol/l (Planta Medica Số 42-1981).

Nghiên cứu tại Viện Institute of Bioagricultural Sciences, Academia Sinica, Đài Bắc (Taiwan) ghi nhận dịch chiết từ lá và hạt Chùm Ngây bằng ethanol có các hoạt tính diệt được nấm gây bệnh loại Trichophyton rubrum, Trichophyton mentagrophytes, Epidermophyton floccosum và Microsporum canis. Các phân tích hóa học đã tìm được trong dầu trích từ lá Chùm Ngây đến 44 hóa chất kháng sinh. (Bioresource Technology Số 98-2007).

2-Tác dụng của quả Chùm Ngây trên cholesterol và lipid trong máu: 

Nghiên cứu tại Đại Học Baroda, Kalabhavan, Gujarat (Ấn Độ) về hoạt tính trên các thông số lipid của quả Chùm Ngây, thử trên thỏ, ghi nhận : Thỏ cho ăn Chùm Ngây (200mg/kg mỗi ngày) hay uống lovastatin (6mg/kg/ ngày) trộn trong một hổn hợp thực phẩm có tính cách tạo cholestero cao, thử nghiệm kéo dài 120 ngày. Kết quả cho thấy Chùm Ngây và Lovastatin có tác dụng gây hạ cholesterol, phospholipid, triglyceride, VLDL, LDL hạ tỷ số cholesterol/ phospholipid trong máu..so với thỏ trong nhóm đối chứng. Khi cho thỏ bình thường dùng Chùm Ngây hay Lovastatin : mức HDL lại giảm hạ nhưng nếu thỏ bị cao cholesterol thì mức HDL lại gia tăng. Riêng Chùm Ngây còn có thêm tác dụng làm tăng sự thải loại cholesterol qua phân (Journal of Ethnopharmacology Số 86-2003). 

3-Giảm bệnh tiểu đường:

Dịch chiết từ cây chùm ngây được xác định cải thiện dung nạp glucose (glucose tolerance) trên mô hình thí nghiệm chuột mắc bệnh tiểu đường (diabetes), ức chế hoạt động của virus Epstein-Barr trong ống nghiệm (in vitro) và giảm bệnh viêm da do virus (papillomas) ở chuột.

4-Tính kháng ung thư:

Chất chiết bằng cồn của cây Chùm ngây, kể cả rễ, có tính kháng ung thư biểu mô mũi hầu, trên mô cấy và tế bào lymphô P388 của ung thư bạch cầu của Chuột (Dhawan và cs 1980).

5-Các hoạt tính chống co-giật, chống sưng và gây lợi tiểu: 

Dịch trích bằng nước nóng của hoa, lá, rễ, hạt..vỏ thân Chùm Ngây đã được nghiên cứu tại Trung Tâm Nghiên cứu Kỹ Thuật (CEMAT) tại Guatamala City về các hoạt tính dược học, thử nơi chuột. Hoạt tính chống co giật được chứng minh bằng thử nghiệm trên chuột đã cô lập, hoạt tính chống sưng thử trên chân chuột bị gây phù bằng carrageenan và tác dụng lợi tiểu bằng lượng nước tiểu thu được khi chuột được nuôi nhốt trong lồng.

Nước trích từ hạt cho thấy tác động ức chế khá rõ sự co giật gây ra bởi acetylcholine ở liều ED50= 65.6 mg/ml môi trường ; tác động ức chế phụ gây ra do carrageenan được định ở 1000mg/kg và hoạt tính lợi tiểu cũng ở 1000 mg/kg. Nước trích từ Rễ cũng cho một số kết quả (Journal of Ethnopharmacology Số 36-1992). 

6-Khả năng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây: 

Nghiên cứu tại Đại Học Jiwaji, Gwalior (Ấn Độ) về các hoạt tính estrogenic, kháng estrogenic, ngừa thai của nước chiết từ Rễ Chùm Ngây ghi nhận chuột đã bị cắt buồng trứng, cho uống nước chiết, có sự gia tăng trọng lượng của tử cung. Hoạt tính estrogenic được chứng minh bằng sự kích thích hoạt động mô tế bào tử cung. 

Khi cho chuột uống nước chiết này chung với estradiol dipropionate (EDP) thì có sự tiếp nối tụt giảm trọng lượng của tử cung so sánh với sự gia tăng trọng lượng khi chỉ cho chuột uống riêng EDP. Trong thử nghiệm deciduoma liều cao nhất 600mg/kg có tác động gây rối loạn sự tạo deciduoma nơi 50 % số chuột thử . Tác dụng ngừa thai của Rễ Chùm Ngây được cho là do nhiều yếu tố phối hợp (Journal of Ethnopharmacology Số 22-1988). 

7-Các chất gây đột biến genes từ hạt Chùm ngây rang chín: 

Một số các hợp chất các chất gây đột biến genes đã được tìm thấy trong hạt Chùm Ngây rang chín: Các chất quan trọng nhất được xác định là 4 (alpha Lrhamnosyloxy) phenylacetonitrile; 4 - hydroxyphenylacetonitri le và 4 – hydroxyphenyl - acetamide. (Mutation Research Số 224-1989).

8-Hoạt tính của Rễ Chùm ngây trên Sạn thận loại Oxalate: 

Thử nghiệm tại Đại Học Dược K.L.E.S, Nehru Nagar, Karnakata (Ấn Độ) trên chuột bị gây sạn thận, oxalate bằng ethylen glycol ghi nhận dịch chiết bằng nước và alcohol rễ cùng lõi gỗ Chùm Ngây làm giảm rõ rệt nồng độ oxalate trong nước tiểu bằng cách can thiệp vào sự tổng hợp oxalate trong cơ thể. Sự kết đọng tạo sạn trong thận cũng giảm rất rõ khi cho chuột dùng dịch chiết này như một biện pháp phòng ngừa bệnh sạn thận.

9-Dùng hạt Chùm ngây để lọc nước: 

Hạt Chùm Ngây có chứa một số hợp chất “đa điện giải” (polyelectrolytes) tự nhiên có thể dùng làm chất kết tủa để làm trong nước.

Kết quả thử nghiệm lọc nước: Nước đục (độ đục 15-25 NTU, chứa các vi khuẩn tạp 280-500 cfu ml (-1), khuẩn coli từ phân 280-500 MPN 100 ml(-1). Dùng hạt Chùm Ngây làm chất tạo trầm lắng và kết tụ, đưa đến kết quả rất tốt (độ đục còn 0.3-1.5 NTU; vi khuẩn tạp còn 5-20 cfu; và khuẩn coli còn 5-10 MPN..) Phương pháp lọc này rất hữu dụng tại các vùng nông thôn của các nước nghèo..và được áp dụng khá rộng rãi tại Ấn độ (Journal of Water and Health Số 3-2005).

Lưu ý! Một số canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng như tinh thể calcium oxalate có thể ức chế khả cấp canxi cho cơ thể. Không phải rõ ràng trong việc tính toán lượng canxi trong lá cây chùm ngây ở dạng khả dụng hay canxi không khả dụng sinh học.

Tóm lại: Cây Chùm ngây có khả năng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa...

Mặc dù trong kinh nghiệp dân gian và Đông y đã có nhiều trải nghiệm thực tiển nhưng về mặt khoa học chính xác cần có thêm nhiều nghiên cứu và kết luận của Tây y, không nên quá chủ quan kỳ vọng thái quá vào các bài thuốc dân gian và Đông dược.

10-Chùm ngây là loài cây chống suy giảm dinh dưỡng

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3.

Lá non có thể hái làm rau cho con người, tăng thành phần dinh dưỡng và giúp phát triển nông thôn thêm phần tự túc nhất là ở những quốc gia đang phát triển. Được Tổ chức Lương nông thế giới (FAO) khuyến cáo nên trồng và phát triển rộng.

Theo FAO, bằng cách trồng cây chùm ngây, nhà nông có thể tận dụng đất xấu, cây cho nhiều bộ phận giàu dinh dưỡng và được thu hoạch như một loại rau.

Cây chùm ngây đã được sử dụng để chống suy dinh dưỡng, đặc biệt là trẻ sơ sinh và bà mẹ đang cho con bú.

-Đối với trẻ em từ 1-3 tuổi, cứ ăn 20g lá chùm ngây tươi là cung ứng 90% Calcium, 100% Vitamin C, Vitamin A, 15% chất sắt, 10% chất đạm cần thiết và hàm luợng Potassium, Đồng…và Vitamin B bổ sung cần thiết cho trẻ.

+Đối với các bà mẹ đang mang thai và cho con bú, chi cần dùng 100g lá tươi mỗi ngày là đủ bổ sung Calcium, Vitamin C, VitaminA, Sắt, Đồng, Magnesium, Sulfur, các vitamin B cần thiết trong ngày.

Một số bài thuốc từ cây chùm ngây

1-Trị u xơ tiền liệt tuyến: Dùng 100g rễ Chùm ngây tươi và 80g lá Trinh nữ hoàng cung tươi (hoặc dùng rễ Chùm ngây khô 30g và lá trinh nữ hoàng cung khô 20g). Đem nấu với 2 lít nước, nấu còn lại nửa lít thuốc. Uống ấm 3 lần trong ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức -ĐH Y Dược, TP.HCM).

2-Trị suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh, giúp ổn định huyết áp, ổn định đường huyết, bảo vệ gan: Mỗi ngày dùng 150g lá Chùm ngây non rửa sạch, giã nát, thêm 300ml nước sạch vắt lấy nước cốt (hoặc dùng máy xay sinh tố), thêm 2 muỗng canh mật ong trộn đều, chia uống 3 lần dùng trong ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).

3-Trị tăng cholesterol, tăng lipid máu, tăng triglycerid, hoặc làm giảm acid uric, ngăn ngừa sỏi oxalate: Mỗi ngày dùng 100gr rễ chùm ngây tươi (hoặc 30gr khô) rửa sạch, nấu với 1 lít nước, nấu sôi 15 phút, để uống cả ngày. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).

 4-Công dụng ngừa thai: Đây là loại cây được đồng bào người Raglay dùng làm thuốc ngừa thai - cứ 5 ngày thì dùng 2 nắm rễ cây chùm ngây còn tươi (150g) rửa sạch băm nhỏ nấu với 2 lít nước, nấu còn nửa lít thuốc, chia uống 2 lần trong ngày. Phụ nữ Raglay trong tuổi sinh đẻ nếu uống nước sắc rễ chùm ngây thì sẽ không có thai. Tuy nhiên, cần lưu ý, phụ nữ đang có thai thì không được dùng cây chùm ngây. (theo Lương y Nguyễn Công Đức- ĐH Y Dược, TP.HCM).


GIỚI THIỆU
Giới thiệu chung Giới thiệu chung
Cơ sở vật chất Cơ sở vật chất
Ban lãnh đạo trung tâm Ban lãnh đạo trung tâm
Thủ tục vào Trung tâm Thủ tục vào Trung tâm
Nội quy của Trung tâm Nội quy của Trung tâm
DỊCH VỤ
Chăm sóc Nội trú Chăm sóc Nội trú
Chăm sóc Tại Nhà Chăm sóc Tại Nhà
Chăm sóc sau tai biến Chăm sóc sau tai biến
Chăm sóc Ban ngày Chăm sóc Ban ngày
Chăm sóc Ngắn hạn Chăm sóc Ngắn hạn
THEO DÕI TÔI TRÊN
tiwter Tiwter
tripadvior Tripadvior
whatsapp WhatsApp
facebook Facebook
print Print
© Copyright 2009 - 2024 All Rights Reserved. Đang Online: 1 Hôm nay: 75 Trong tuần: 351 Trong tháng: 1216    Tổng: 66393 Design by: khoahocbacha.com
CHAT ZALO
HOTLINE : 0342205568
HOTLINE : 0342205568